₫asia99
asia99-Làng Phù Vân quê tôi là một làng lớn nằm sát dòng sông Thao. Bố tôi bảo ngày xưa làng ở ngoài đê, rồi biến động của trời đất, mỗi năm sông liếm đi một ít. Bao nhiêu đình chùa miếu điện lăn tùm xuống sông cả. Sau phải chạy vào trong đê. Mùa lũ, cả làng bám chặt con đê như đàn kiến ôm lấy cây củi rều chập chồi giữa sóng nước. Một năm lụt to, ông ôm tôi vào lòng than thở: “Cái đất nào có tên chữ là “Phù” y như vất vả chìm nổi. Không giặc giã thiên tai thì số phận cũng lật đật chẳng ra gì. Loạn lạc còn biết cụm dựa vào nhau, nhưng yên hàn lại dễ sinh lòng khác…”. Chả biết có phải thế không nhưng lịch sử làng tôi được các cụ chép lại thì ghê gớm lắm. Trên địa đồ thời Hồng Đức, làng tôi như cái túi mật bám theo thẻo trên lưỡi nước ngầu đỏ. Một lần bị tru di tam tộc mười tám dòng họ những người làm quan trong triều. Hai lần giặc Pháp đốt làng, rồi đến Nhật chiếm... Năm nào nước lên to quá, làng tôi là chỗ phá đê để cứu vùng khác... Đất thì thế, còn người cũng lắm phen “lên voi xuống chó”. Thuở xưa làng có nhiều người đỗ đạt, có bà Cả Vàng cầm quân chống giặc ngoại xâm được phong cấp tướng. Nhưng sau cái nạn tru di, bị yểm long mạch thế nào con cháu cứ đụt dần. Mấy trăm năm liền không một ai vượt qua được câu “học trò thủng đít”. Sau cách mạng, dân làng cũng tiền lưng gạo góp đón thầy, mở trường. Nhưng bao nhiêu trò thì có bấy nhiêu viên đá ong để thầy phạt vì học dốt. Trò dốt phải trật quần ra quỳ gối trên đá ong cho thầy đánh. Đánh mãi mỏi tay, thầy lắc đầu đeo bị bỏ trường. Cho đến tận thời kỳ chống Mỹ làng tôi vẫn không có ai vượt qua được cái lớp bảy.
asia99-Làng Phù Vân quê tôi là một làng lớn nằm sát dòng sông Thao. Bố tôi bảo ngày xưa làng ở ngoài đê, rồi biến động của trời đất, mỗi năm sông liếm đi một ít. Bao nhiêu đình chùa miếu điện lăn tùm xuống sông cả. Sau phải chạy vào trong đê. Mùa lũ, cả làng bám chặt con đê như đàn kiến ôm lấy cây củi rều chập chồi giữa sóng nước. Một năm lụt to, ông ôm tôi vào lòng than thở: “Cái đất nào có tên chữ là “Phù” y như vất vả chìm nổi. Không giặc giã thiên tai thì số phận cũng lật đật chẳng ra gì. Loạn lạc còn biết cụm dựa vào nhau, nhưng yên hàn lại dễ sinh lòng khác…”. Chả biết có phải thế không nhưng lịch sử làng tôi được các cụ chép lại thì ghê gớm lắm. Trên địa đồ thời Hồng Đức, làng tôi như cái túi mật bám theo thẻo trên lưỡi nước ngầu đỏ. Một lần bị tru di tam tộc mười tám dòng họ những người làm quan trong triều. Hai lần giặc Pháp đốt làng, rồi đến Nhật chiếm... Năm nào nước lên to quá, làng tôi là chỗ phá đê để cứu vùng khác... Đất thì thế, còn người cũng lắm phen “lên voi xuống chó”. Thuở xưa làng có nhiều người đỗ đạt, có bà Cả Vàng cầm quân chống giặc ngoại xâm được phong cấp tướng. Nhưng sau cái nạn tru di, bị yểm long mạch thế nào con cháu cứ đụt dần. Mấy trăm năm liền không một ai vượt qua được câu “học trò thủng đít”. Sau cách mạng, dân làng cũng tiền lưng gạo góp đón thầy, mở trường. Nhưng bao nhiêu trò thì có bấy nhiêu viên đá ong để thầy phạt vì học dốt. Trò dốt phải trật quần ra quỳ gối trên đá ong cho thầy đánh. Đánh mãi mỏi tay, thầy lắc đầu đeo bị bỏ trường. Cho đến tận thời kỳ chống Mỹ làng tôi vẫn không có ai vượt qua được cái lớp bảy.